Ở Nhật nói đến văn hóa truyền thống thì sumo được xem là nghi lễ tôn giáo (đạo Shinto hay Thần Đạo). Ngoài ra, Sumo cũng là một môn võ nghệ và võ đạo. Các nhà sử học cho rằng Sumo xuất hiện từ cách đây 2.000 năm, tuy nhiên đến đầu những năm 1600 mới trở nên thịnh hành và phát triển rực rỡ như một môn thể thao.
Sumo có nguồn gốc từ tôn giáo, là một nghi lễ đi kèm những điệu múa linh thiêng dâng lên các vị thần đạo Shinto để tiên đoán, cũng như cầu mong cho mùa màng bội thu. Thời Nara (710 - 794), Sumo được giới thiệu đến tầng lớp vua chúa ở Nhật và hàng năm có một giải đấu bắt đầu được tổ chức, từ đó các quy luật và kỹ thuật thi đấu cũng hình thành.
Sumo có từ cách đây 2000 năm ở Nhật Bản. Ảnh: Edward Dalmudal. |
Đến khoảng năm 1192, chiến tranh nổ ra và Sumo được đưa vào huấn luyện trong quân đội. Sau khi tướng Tokugawa thống nhất nhật bản và bắt đầu thời kỳ Edo (1603 – 1868) thịnh vượng, các nhóm võ sĩ Sumo chuyên nghiệp hình thành. Hiệp hội Sumo Nhật Bản ngày nay chính là bắt nguồn từ những nhóm võ sĩ Sumo thời kỳ Edo. Sumo bắt đầu được diễn trong các lễ hội tại các ngôi đền cũng trong thời kỳ này.
Mãi đến giai đoạn cuối của thời kỳ Minh Trị (1868 – 1912) thì Sumo mới lần đầu tiên được gọi là một môn thể thao dân tộc. Mặc dù còn rất nhiều nghi lễ mang đậm tính tôn giáo đi kèm nhưng môn võ này vẫn được gìn giữ cho đến ngày nay. Nhật Bản là đất nước duy nhất mà Sumo được tổ chức tập luyện, biểu diễn và thi đấu một cách chuyên nghiệp.
Các võ sĩ Sumo (rikishi) thường được huấn luyện từ nhỏ và ở cùng nhau trong các trung tâm huấn huyện. Họ đều phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt, được quy định bởi Hiệp hội Sumo, chi phối mọi mặt đời sống như thực đơn ăn uống hàng ngày, trang phục, hành vi… Một ngày của các võ sĩ bắt đầu từ 5 giờ sáng và thực hành các bài tập với chiếc bụng rỗng, vì nếu bụng đầy thức ăn sẽ khiến họ khó có thể vận động nhanh lẹ được. 11 giờ trưa các đô vật ăn bữa đầu tiên trong ngày.
Nguyên liệu chính trong chế độ ăn của họ là chanko do các võ sĩ đã nghỉ cùng các tân học viên chuẩn bị. Từ chanko bắt nguồn từ món thịt hầm, tuy nhiên chanko là món gồm nhiều loại thịt, rau và cá khác nhau. Tất cả cùng nấu chung trong một nồi nước luộc gà. Món chanko có từ thời Meiji (1868-1912), rất dễ chế biến và phục vụ cho nhiều người cùng một lúc. Các võ sĩ ăn đến khi không ăn được nữa thì thôi. Đây cũng là một phần trong quá trình tập luyện của các võ sĩ Sumo. Sau bữa ăn này họ về phòng ngủ một giấc dài, đến 18 hoặc 19 giờ họ lại ngồi vào bàn ăn bữa tối.
Các võ sĩ Sumo từ lâu đã trở thành những biểu tượng anh hùng dân tộc. Ảnh: Ezcape Artizt. |
Sumo coi trọng đẳng cấp và mỗi võ sĩ đều phân cấp rõ ràng. Có 6 cấp khác nhau là Makuuchi, Juryo, Makushita, Sandanme, Jonidan và Jonokuchi. Chỉ những võ sĩ nào đã đạt đến đẳng cấp Juryo trở lên mới được xem là võ sĩ Sumo chuyên nghiệp thật sự, gọi là Sekitori và được trả lương. Mỗi năm có 6 giải đấu Sumo, 3 giải tổ chức ở tokyo , một giải ở osaka , một giải ở Nagoya và một ở Fukuoka. Mỗi giải bắt đầu vào ngày chủ nhật và kéo dài 15 ngày.
Ngày nay, có nhiều tour dành riêng cho du khách muốn tìm hiểu về Sumo.
Trận đấu Sumo diễn ra trên sàn đấu bằng đất sét với lớp cát rải lên trên. Nét đặc sắc của Sumo chính là các nghi lễ truyền thống trang nghiêm đầy màu sắc mà không môn thể thao nào khác có. Một trong số đó là nghi lễ Dohyo-iri, thực hiện 4 lần trong mỗi ngày thi đấu, 2 lần cho đẳng cấp Juryo và 2 cho đẳng cấp Makuuchi. Một nghi lễ khác được thực hiện cuối ngày thi đấu sau trận cuối cùng.
Một Makuuchi được chọn sẽ lên sàn đấu nhận chiếc cung từ trọng tài và thực hiện điệu múa với chiếc cung. Nghi lễ này có từ thời Edo và để biểu trưng cho hành động mừng chiến thắng của các võ sĩ Sumo. Sumo là môn võ thể hiện sự cứng rắn và dũng khí của con người Nhật Bản. Từ một nghi lễ của Thần Đạo được biểu diễn trong cung đình, Sumo đã phát triển trở thành một môn thể thao dân tộc và vẫn được duy trì đến tận ngày nay.
Hương Chi