Những cư dân quần tụ trên Phá Tam Giang được gọi là người thủy diện (người sống trên mặt nước), với tính cách lang bạt có sẵn đã biến những khu vực cư trú của họ trên đầm phá trở thành lãnh thổ khó xâm phạm. Xét về mặt hành chính, người thuỷ diện ngày xưa như những đứa con hoang, không được xã hội thừa nhận. Bởi trong xã hội phong kiến, với yếu tố trọng nông – dĩ nông vi bản – có nghĩa lấy nghề nông làm gốc, thì các nghề khác đều bị xem nhẹ, trong đó nghề ngư nghiệp còn được xem là nghề mạt hạng, sự nghiệt ngã của quan niệm ấy khiến người thuỷ diện thường bị xã hội coi khinh, miệt thị, bị cho là ăn bám, ký gửi, họ không được đăng ký hộ tịch, thậm chí khi chết không có đất để chôn.
Đến thời Tự Đức xuất hiện một người có nguồn gốc là cư dân thủy diện, học hành thi cử đỗ đạt, sau trở thành thượng thư, tên là Hoàng Hữu Thường, do là người thủy diện nên ông thương xót cư dân đồng cảnh ngộ với mình và cảm thấy một sự thiếu công bằng giữa nông và ngư, ông bàn triều đình biên chế toàn bộ người thủy diện ở vùng kinh sư thành một tổng, như một tổ chức đơn vị hành chính trên bộ, gọi là tổng võng nhi – nghĩa là con nhà chài lưới.
Căn cứ trên việc tụ cư khắp các lưu vực sông của tam giang, sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, tập hợp đổ ra Phá, biên chế toàn bộ các vạn trên đầm phá và 3 sông đó thành 13 làng, những khu vực vạn sống kế cận nhau người ta xây dựng tổ chức liên vạn gọi là làng trên mặt nước, làng thủy diện ra đời, các làng nằm trong biên chế tổng võng nhi, từ đó cư dân sông nước bắt đầu có đăng ký hộ tịch.
Ở gian bếp của đình làng, cánh phụ nữ rộn ràng đồ xôi, luộc gà, chuẩn bị sắp mâm rượu để các vị bô lão của làng đại diện rước những lễ vật ấy bày biện ra trước bàn thờ chính trình lên thần linh và tổ tiên. Sau những lời khấn nguyện của người đại diện ở bàn thờ chính, người làng sắp thêm một mâm cúng khác, trên đó có bày đĩa khoai củ và một con cá giỏi, ông Đào Tốn – bô lão của làng Ngư Mỹ Thạnh giải thích: “Hàng năm trên đầm phá thường có những nạn nhân chết do tai nạn, bão lũ, có nhiều người không bà con thân thuộc, không ai lo cúng giỗ cho nên người làng lập bàn thờ cúng cho bộ áo, do chết dưới nước thì cúng con cá giỏi, còn đĩa khoai củ là cúng các đảng cô hồn trên Phá Tam Giang”.
Bên cạnh hệ thống nò sáo đã trở thành một đặc sản của vùng đầm phá, lễ cầu ngư của cư dân Phá Tam Giang cũng là một nét văn hóa thú vị, góp cho vẻ đẹp vùng đầm phá thêm phong phú và quyến rũ hơn. Ngày nay, Phá Tam Giang không chỉ là nơi cư trú riêng của cư dân đầm phá, mà còn là một địa danh du lịch trải nghiệm hấp dẫn với lữ khách phương xa.
Thiên An (TL TST Tourist)